Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa & các loại học vị thời Phong kiến

[CSC] Chúng ta đã nghe đến: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Thái học sinh… và sau đây chúng tôi sẽ tổng hợp các danh hiệu (học vị) của những người đỗ đạt các kỳ thi trong thời Phong kiến xưa.

Bảng tổng hợp Khoa bảng thời Phong kiến
THI HƯƠNG THI HỘI THI ĐÌNH
Giải nguyên Hội nguyên Đình nguyên
Hương cống (Cống sĩ) Thái học sinh Trạng nguyên
Sinh đồ Phó bảng Bảng nhãn
Thám hoa
Hoàng giáp
Đồng tiến sĩ xuất thân

>> Xem thêm: Tìm hiểu Hệ thống Khoa cử Việt Nam thời Phong kiến

Học vị trong kỳ thi Hương

Thi Hương là một khoa thi liên tỉnh, theo lệ 3 năm tổ chức 1 lần về nho học do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng và bổ nhiệm làm quan. Sau khi đỗ Cống sĩ thì năm sau mới được dự thi kỳ thi cao cấp hơn là thi Hội, và nếu đậu thi Hội sẽ vào xếp hạng Tiến sĩ khi thi Đình.

>> Xem thêm: Thi Hương – 1 trong 3 kỳ thi quan trọng bậc nhất thời Phong kiến

Giải nguyên

Giải nguyên (chữ Nho: 解元) là một học vị trong hệ thống khoa bảng Việt Nam. Dùng để gọi thí sinh đỗ cao nhất trong khoa thi Hương, hạng đầu bảng được gọi là Cống sĩ; xếp cao nhất số Cống sĩ gọi là Giải nguyên.

Danh sách một số Giải nguyên trong lịch sử:

  • Nguyễn Quỳnh (1677 – 1748): đỗ Giải nguyên lúc 20 tuổi, làm quan Hàn lâm viện Tu soạn
  • Phan Huy Cẩn (1722 – 1789): đỗ Giải nguyên lúc 26 tuổi, là Hội nguyên Tiến sĩ làm quan đến Công bộ Tả Thị lang
  • Nguyễn Thiếp (1723 – 1804): hiệu La Sơn phu tử, Giải nguyên lúc 21 tuổi, là danh sĩ thời Lê-Trịnh và Tây Sơn
  • Lê Quý Đôn (1726 – 1784): Giải nguyên lúc 18 tuổi là Tam nguyên Bảng nhãn, danh sĩ, làm đến chức Bồi tụng.
  • Vũ Trinh (1759 – 1828): Giải nguyên lúc 17 tuổi, thi Hội đậu Tam trường, là danh sĩ, luật gia làm quan đến Tham tri Chính sự, nhà soạn Chèo.
  • Nguyễn Đề (1761 – 1805): Giải nguyên lúc 23 tuổi, thi Hội đậu Tam trường là đại quan thời Tây Sơn
  • Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858): Giải nguyên lúc 42 tuổi, là nhà quân sự, nhà kinh tế và nhà thơ trong lịch sử Việt Nam cận đại
  • Bùi Hữu Nghĩa (1807 – 1872): Giải nguyên lúc 29 tuổi, nhà thơ, nhà soạn Tuồng
  • Thủ khoa Huân (1830 – 1875): Giải nguyên lúc 22 tuổi, nhà yêu nước.
  • Nguyễn Khuyến (1835 – 1909): Giải nguyên lúc 30 tuổi, là Tam nguyên Hoàng giáp, nhà thơ, nhà văn.
  • Nguyễn Cao (1837 – 1887): Giải nguyên lúc 31 tuổi, là danh tướng thời Nguyễn, nhà thơ.
  • Hồ Sĩ Tạo (1841 – 1907) Giải nguyên lúc 28 tuổi làm quan đến Huấn đạo huyện Nho Quan là người giúp đỡ cho Nguyễn Sinh Sắc trên đường cử nghiệp
  • Phan Bội Châu (1867 – 1940): Giải nguyên lúc 24 tuổi, nhà cách mạng.

Hương cống

Cống sĩ (Chữ Hán: 貢士) (từ thời Gia Long trở về trước gọi là Hương cống 鄉貢; tới thời Minh Mạng gọi là Cử Nhân 舉人) là một loại học vị trong hệ thống khoa bảng Việt Nam thời phong kiến, tức là đỗ tứ trường khoa thi Hương và sẽ được bổ nhiệm làm quan, thí sinh xếp thứ nhất trong các Cống sĩ khoa thi Hương gọi là Giải nguyên.

Vào đời nhà Hậu Lê mỗi khoa thi Hương có 4 kỳ (xưa gọi là 4 trường) kéo dài khoảng 1 tháng. Nội dung thi cơ bản như sau:

  • Kỳ I: Kinh nghĩa, thư nghĩa;
  • Kỳ II: chiếu, chế, biểu;
  • Kỳ III: thơ phú;
  • Kỳ IV: văn sách.

Đỗ cả ba kỳ thì được nhận học vị Tú Tài hay sinh đồ; đỗ cả bốn kỳ được nhận học vị Cử Nhân hay Hương cống.

Hương cống và sinh đồ là tên gọi do vua Lê Thánh Tông đặt năm 1466.

Đến năm 1828 vua Minh Mạng mới đổi cách gọi Hương cống thành Cử nhân. Ở Việt Nam, không nên lầm lẫn giữa Cử nhân Nho học của triều Nguyễn (lấy ít người đậu, 3 năm một khoa thi) với Cử nhân tân học (tốt nghiệp Đại học của nhiều trường trong nước ngày nay).

Danh sách một số Cống sĩ trong lịch sử:

  • Đỗ Trọng Vỹ (1829 – 1899): đỗ Cống sĩ lúc 36 tuổi, làm quan Đốc học, là tác giả Bắc Ninh địa dư chí
  • Cao Xuân Dục (1843 – 1923): đỗ Cống sĩ lúc 34 tuổi, làm quan Phụ chính Đại thần, Học bộ Thượng thư, Đông các điện Đại học sĩ, từng làm Đề điệu (Chánh chủ khảo) khoa thi Hội; là cha của Phó bảng, Thượng thư Cao Xuân Tiếu
  • Nguyễn Thiện Thuật (1844 – 1926): đỗ Cống sĩ lúc 33 tuổi, lãnh tụ khởi nghĩa Cần vương ở Bắc phần Việt Nam thời Pháp thuộc
  • Đào Tấn (1845 – 1907): đỗ Cống sĩ lúc 23 tuổi, làm quan đến Công bộ Thượng thư, Hiệp biện Đại học sĩ; là người soạn tuồng và hát bội nổi tiếng
  • Hoàng Hữu Xứng (1831 – 1905): đỗ Cống sĩ lúc 22 tuổi làm quan đến chức Tuần phủ Hà Nội sau thăng Hiệp biện Đại học sĩ là cụ nội của Hoàng Kiều (chủ tập đoàn Shanghai RAAS Blood Products).

Sinh đồ

Sinh đồ (chữ Nho: 生徒; tên gọi khác là Tú tài Nho học) là một loại học vị trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến, dùng để chỉ những người đã đỗ cả ba kỳ của khoa thi Hương (tam trường) như đã nói bên trên.

Thi xong kỳ nào chấm bài kỳ ấy, ai đỗ vào thi tiếp kỳ sau, ai trượt thì về. Thi đỗ kỳ III, vào kỳ IV không đỗ thì được nhận học vị sinh đồ, đỗ cả bốn kỳ được nhận học vị hương cống, và năm sau mới được phép dự thi kỳ thi Hội (nếu muốn).

Hương cống và sinh đồ là tên gọi do vua Lê Thánh Tông đặt năm 1466. Đến năm 1828 vua Minh Mạng mới đổi cách gọi Sinh đồ thành Tú tài Nho học. Cống sĩ được bổ nhiệm làm quan, Sinh đồ (Tú tài Nho học) đủ tư cách đi dạy học.

Danh sách một số Sinh đồ trong lịch sử:

  • Đặng Trần Thường (1759 – 1813): đỗ Sinh đồ lúc khoảng 30 tuổi, làm quan đến Binh bộ Thượng thư nhà Nguyễn
  • Nguyễn Du (1766 – 1820): đỗ Sinh đồ lúc 18 tuổi, là quan lại thời Lê-Trịnh và thời Nguyễn, đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới
  • Phạm Đình Hổ (1768 – 1839): đỗ Sinh đồ khoảng lúc 21-22 tuổi, thời cuối Lê Chiêu Thống; là tác giả của Quốc triều hội điển, Vũ trung tùy bút
  • Phan Huy Chú (1782 – 1840): đỗ tam trường khoa thi Hương (các khoa thi 1807, 1819), lúc 26 tuổi và 38 tuổi; làm quan đến Hàn lâm viện Thị độc; nhà thư tịch, nhà bác học Việt Nam
  • Trần Tế Xương (1870 – 1907): đỗ tam trường khoa thi Hương lúc 25 tuổi, nhà thơ Việt Nam

Học vị trong kỳ thi Hội

Thi Hội là một Khoa thi Nho học thường lệ 3 năm tổ chức 1 lần (áp sát ngay sau năm của khoa thi Hương) tại Kinh đô để tuyển chọn người có tài, học rộng. Chỉ có những người đã đỗ thi Hương (tức Cống sĩ) mới được quyền tham dự. Người đỗ cả bốn kỳ của khoa thi Hội là đậu đại khoa (sẽ vào tiếp Đình thí xếp hạng Tiến sĩ), đậu cả ba kỳ của khoa thi Hội là đậu Tam trường thi Hội. Thể thức giống với thi Hương, cũng gồm 4 kỳ như vậy, song ở cấp độ cao và khó hơn. Thí sinh đã đỗ thi Hội thì đã là đậu đại khoa, vì thi Đình chỉ xếp hạng Tiến sĩ chứ không loại bỏ ai (gọi là Đình thí bất truất). Vì thi Hội khó nên trúng Tam trường thi Hội trở lên đều có thể được giữ những chức quan cao.

>> Xem thêm: Thi Hội – 1 trong 3 kỳ thi quan trọng bậc nhất thời Phong kiến

Hội nguyên

Hội nguyên (tiếng Hoa:會元)tên gọi người thí sinh đỗ cao nhất trong khoa thi Hội. Hội nguyên là đỗ thứ nhất trên toàn số Cống sĩ cả nước tham dự, cùng với Đình nguyên được xếp hạng Thủ khoa Nho học Việt Nam.

Danh sách một số Hội nguyên trong lịch sử:

  • Thân Nhân Trung (申仁忠, 1419 – 1499) Hội nguyên năm 51 tuổi làm quan đến Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Quốc tử giám Tế tửu
  • Nhữ Đình Toản (汝公瓚, 1702 – 1773): Hội nguyên năm 35 tuổi, làm Tham tụng (Tể tướng), kiêm Quốc tử giám Tế tửu
  • Nguyễn Bá Lân (阮伯麟, 1700 – 1785): Hội nguyên năm 32 tuổi làm Bồi tụng (Phó Tể tướng) kiêm Quốc tử giám Tế tửu
  • Vũ Miên (武檰; 1718 – 1782): Hội nguyên năm 31 tuổi làm Hành Tham tụng kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Quốc sử Tổng tài
  • Ninh Tốn (寧遜, 1744 – 1795): Hội nguyên năm 34 tuổi, làm Bồi tụng (Phó Tể tướng), kiêm Quốc sử quán Toản tu
  • Khiếu Năng Tĩnh (呌能靜, 1835 – 1919): Hội nguyên năm 45 tuổi làm quan đến Quốc tử giám Tế tửu Huế

Thái học sinh

Thái học sinh (chữ Hán: 太學生)học vị cấp cho những thí sinh thi đỗ kỳ thi Hội, một trong những kỳ thi Nho học do triều đình phong kiến tổ chức. Học vị này xuất hiện từ khoa thi Nhâm Thìn (1232) đời Trần Thái Tông cho đến khoa thi Canh Thìn (1400) đời Hồ Quý Ly, được xem là tương đương học vị Tiến sĩ, hay trong dân gian gọi là ông Nghè, xuất hiện về sau này, từ khoa thi Nhâm Tuất (1442) đời Lê Thái Tông cho tới khoa thi Nho học cuối cùng ở Việt Nam vào năm Kỷ Mùi (1919) đời Khải Định.

Danh sách một số Thái học sinh trong lịch sử:

  • Chu Văn An (1292 – 1370), chưa rõ năm thi đỗ, làm Tư nghiệp Quốc tử giám
  • Đại y Thiền sư Tuệ Tĩnh (1330 – ?) đỗ Thái học sinh năm 22 tuổi, ông tổ ngành dược Việt Nam.
  • Nguyễn Trãi (1380 – 1442), đỗ Thái học sinh năm 21 tuổi, làm Nhập nội Hành khiển (Tể tướng) triều Lê
  • Phạm Sư Mạnh (1303 – 1384), Đại hành khiển (Tể tướng) triều Trần

Phó bảng

Phó bảng (chữ Hán: 副榜; Tiến sĩ Ất khoa) là một học vị trong hệ thống khoa bảng Việt Nam trong thời Nguyễn, được áp dụng từ 1829 đến 1919. Cống sĩ đã dự thi Hội khi đậu đại khoa chia 2 hạng: hạng dưới gọi là Phó bảng/Tiến sĩ Ất khoa, hạng trên gọi là Chính bảng/Tiến sĩ Giáp khoa.

Danh sách một số Phó bảng trong lịch sử:

  • Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1872), Phó bảng năm 40 tuổi, khoa thi Hội năm Mậu Tuất – Minh Mạng thứ 19 (1838), làm quan đến Thị giảng học sĩ (hàm Tòng tứ phẩm), phụ trách giảng dạy hoàng tử, từng làm Ất sứ sang nhà Thanh.
  • Vũ Duy Thanh (1807 – 1859), đỗ Phó bảng năm 44 tuổi, đỗ Thủ khoa Chế khoa, làm Tư nghiệp rồi Tế tửu Quốc tử giám Huế.
  • Đỗ Đăng Đệ (1814 – 1888), đỗ Phó Bảng năm 29 tuổi, khoa Nhâm Dần – Thiệu Trị thứ 2 (1842), làm quan đến Lễ bộ Thượng thư, là nhà thơ.
  • Hoàng Diệu (1829 – 1882), đỗ Phó Bảng năm 25 tuổi, khoa Quý Sửu – Tự Đức thứ 6 (1853), từng giữ chức Tổng đốc Hà Ninh (bao gồm Hà Nội và vùng phụ cận). Nguyễn Thuật (1842–1911), đỗ Phó bảng năm 27 tuổi, khoa thi Hội năm Mậu Thìn – Tự Đức thứ 21 (1868), từng làm đến chức Thượng thư, Tổng đốc Thanh Hóa.
  • Nguyễn Sinh Sắc (1862 – 1929), Phó bảng năm 40 tuổi, làm quan Thừa biện bộ Lễ là thân sinh Hồ Chí Minh.
  • Phan Châu Trinh (1872 – 1926), đỗ Phó bảng năm 30 tuổi, khoa thi năm Tân Sửu (1901).

Học vị trong kỳ thi Đình

Thi Đình (Đình thí, Điện thí) là một khóa thi nho học cao cấp nhất do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng. Người thi đỗ được bổ nhiệm làm quan chức trong triều chính. Sau khi thí sinh đỗ khoa thi Hội thì mới được dự thi thi Đình. Đỗ đầu thi Đình gọi là đình nguyên hay điện nguyên. Gọi là thi Đình vì thi trong cung điện của vua.

>> Xem thêm: Thi Đình – 1 trong 3 kỳ thi quan trọng bậc nhất thời Phong kiến

Đình nguyên

Thủ khoa nho học Việt Nam (còn gọi là Đình nguyên)những người đỗ cao nhất trong các khoa thi nho học thời phong kiếnĐại Việt (còn gọi là thủ khoa Đại Việt, trong các triều đại nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Hậu Lê, nhà Mạc), và Đại Nam của nhà Nguyễn (còn gọi là Đình nguyên thời Nguyễn). Danh hiệu này không bao gồm các thủ khoa các kỳ thi tiến sĩ võ trong các triều đại Việt Nam và các kỳ thi Phật học thời nhà Lý.

Các khoa thi tiến sĩ nho học đầu tiên có tên là khoa thi Minh kinh bác học. Khoa thi Minh kinh bác học đầu tiên được mở ra dưới thời nhà Lý năm 1075, người đỗ đầu khoa thi này là Lê Văn Thịnh. Đến thời nhà Trần, theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì trong các năm 1232, 1239 có mở các kỳ thi Thái học sinh (tên gọi các khoa thi tiến sĩ nho học dưới triều nhà Trần và nhà Hồ).

Thủ khoa nho học Việt Nam, trước khi có danh hiệu tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) dành cho 3 vị trí đầu tiên từ đời vua Trần Thái Tông (năm 1246 hoặc 1247?), chưa có danh hiệu chính thức, tạm gọi họ là các thủ khoa Đại Việt. Hiện tại, thống kê theo các nguồn khác nhau có khoảng 9 người đỗ đầu trong các kỳ thi này. Một số tài liệu vẫn xếp 7 người trong số này (trừ Lưu Diễm và Vương Giát) vào danh sách các trạng nguyên Việt Nam.

Thời nhà Hồ, quốc hiệu là Đại Ngu, nhưng vì thời gian tồn tại quá ngắn kẹp giữa quốc hiệu Đại Việt và chỉ tổ chức được 2 khoa thi Thái học sinh với 2 thủ khoa, nên có thể xếp chung vào nhóm thủ khoa Đại Việt.

Thời nhà Hậu Lê các khoa thi nho học được phân cấp thành 3 cấp từ thấp tới cao là: thi Hương (cấp địa phương), thi Hội (cấp quốc gia), thi Đình (cấp quốc gia). Thủ khoa tiến sĩ nho học là người đỗ đầu kỳ thi Đình (Đình nguyên), là kỳ thi do nhà vua tổ chức cho các tân tiến sĩ đã đỗ trong kỳ thi Hội để chọn tam khôi và phân hạng tiến sĩ. (Việc phân hạng tiến sĩ thành 3 bậc: đệ nhất giáp (tam khôi), đệ nhị giáp, đệ tam giáp lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm Kiến Trung thứ 8 (1232) đời vua Trần Thái Tông. đến nhà Hậu Lê năm 1484 niên hiệu Hồng Đức thứ 15, Lê Thánh Tông lập lại đặt thành: tiến sĩ cập đệ, tiến sĩ xuất thân và đồng tiến sĩ xuất thân.) Tuy vậy, trong cuốn Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú vẫn kể đến tên những thủ khoa của các kỳ thi Hội vào trong phần số người đỗ các khoa, mục khoa mục chí.

Từ khi có danh hiệu tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) vào đời vua Trần Thái Tông), thì các thủ khoa Đại Việt được chính thức gọi là Trạng nguyên (Trạng nguyên Việt Nam cũng chính là Đình nguyên tức thủ khoa Đại Việt). Tuy vậy, không phải mọi khoa thi đều có trạng nguyên nên thủ khoa Đại Việt không hoàn toàn đồng nhất với Trạng nguyên Việt Nam.

Đến thời nhà Nguyễn, Đại Việt được đổi tên thành Việt Nam, sau đó lại đổi thành Đại Nam. Các kỳ thi tiến sĩ nho học thời Nguyễn chỉ bắt đầu từ năm Minh Mạng khi quốc hiệu Việt Nam đã được đổi thành Đại Nam. Với dụng ý tập trung quyền lực độc tôn vào hoàng đế, Gia Long đặt ra lệ tứ bất, trong đó tại kỳ thi Đình không lấy trạng nguyên nên những người đỗ cao nhất chỉ được ban tới bảng nhãn hay thấp hơn. Mặc dù, tất cả các kỳ thi tiến sĩ nho học thời nhà Nguyễn đều là các khoa thi Hội (nhà Nguyễn không tổ chức thi Đình), nhưng các thủ khoa thời Nguyễn vẫn được gọi là Đình nguyên. Vì tuy không tổ chức một kỳ thi Đình chung cuộc sau kỳ thi Hội, nhưng các bài thi Hội của các tân tiến sĩ được các vị vua xem xét chấm chung cuộc.

Danh sách thủ khoa nho học Việt Nam:

Thứ tự Họ tên thủ khoa nho học Khoa thi Triều đại
Thủ khoa (Minh kinh bác học, Thái học sinh), Trạng nguyên, Kinh trạng nguyên, Đình nguyên Thủ khoa Thái học sinh, Trại trạng nguyên, Hội nguyên
1 Lê Văn Thịnh 1075
2 Mạc Hiển Tích 1086
3 Bùi Quốc Khái 1185
4 Trương Hanh Lưu Diễm 1232 Trần
5 Lưu Miễn Vương Giát 1239 Trần
6 Nguyễn Quan Quang 1246 Trần
7 Nguyễn Hiền 1247 Trần
8 Trần Quốc Lặc Trương Xán 1256 Trần
9 Trần Cố Bạch Liêu 1266 Trần
10 Lý Đạo Tái 1272 (1274) Trần
11 Đào Tiêu 1275 Trần
12 Mạc Đĩnh Chi 1304 Trần
13 Đào Sư Tích 1379 Trần
14 Đoàn Xuân Lôi 1384 Trần
15 Hoàng Quán Chi 1393 Trần
16 Lưu Thúc Kiệm 1400 Hồ
17 Hà Ngạn Thần 1405 Hồ
18 Triệu Thái 1429 Hậu Lê
19 Nguyễn Thiên Tích 1431 Hậu Lê
20 Nguyễn Vết Tuyên 1435 Hậu Lê
21 Nguyễn Trực Nguyễn Như Đổ 1442 Hậu Lê
22 Nguyễn Nghiêu Tư Đặng Tuyên 1448 Hậu Lê
23 Vũ Bá Triệt Nguyễn Chỉ 1453 Hậu Lê
24 Nguyễn Văn Xứng 1458 Hậu Lê
25 Lương Thế Vinh Quách Đình Bảo 1463 Hậu Lê
26 Dương Như Châu (không rõ) 1466 Hậu Lê
27 Phạm Bá Thân Nhân Trung 1469 Hậu Lê
28 Vũ Kiệt Lê Tuấn Ngạn 1472 Hậu Lê
29 Vũ Tuấn Chiêu Cao Quýnh 1475 Hậu Lê
30 Lê Quảng Chí Lê Minh 1478 Hậu Lê
31 Phạm Đôn Lễ 1481 Hậu Lê
32 Nguyễn Quang Bật Phạm Trí Khiêm 1484 Hậu Lê
33 Trần Sùng Dĩnh Phạm Trân 1487 Hậu Lê
34 Vũ Duệ Nguyễn Khao 1490 Hậu Lê
35 Vũ Dương 1493 Hậu Lê
36 Nghiêm Viện Nguyễn Huân 1496 Hậu Lê
37 Đỗ Lý Khiêm Lương Đắc Bằng 1499 Hậu Lê
38 Lê Ích Mộc (không rõ) 1502 Hậu Lê
39 Lê Nại 1505 Hậu Lê
40 Nguyễn Giản Thanh Đỗ Vinh 1508 Hậu Lê
41 Hoàng Nghĩa Phú Nguyễn Thái Hoa 1511 Hậu Lê
42 Nguyễn Đức Lượng Nguyễn Bỉnh Đức 1514 Hậu Lê
43 Ngô Miễn Thiệu Đặng Ất 1518 Hậu Lê
44 Nguyễn Thái Bạt Nguyễn Bật 1520 Hậu Lê
45 Hoàng Văn Tán Đào Nghiễm 1523 Hậu Lê
46 Trần Tất Văn Phạm Đình Quang 1526 Hậu Lê
47 Đỗ Tống Nguyễn Quang Tán 1529 Mạc
48 Nguyễn Thiến 1532 Mạc
49 Nguyễn Bỉnh Khiêm 1535 Mạc
50 Giáp Hải Đinh Soạn 1538 Mạc
51 Nguyễn Kỳ Bạch Hồng Nho 1541 Mạc
52 Vũ Cảnh (không rõ) 1544 Mạc
53 Dương Phúc Tư Nguyễn Thước 1547 Mạc
54 Trần Văn Bảo Ngô Bật Lượng 1550 Mạc
55 Nguyễn Lượng Thái Trần Vĩnh Tuy 1553 Mạc
56 Đinh Bạt Tụy 1554 Hậu Lê
57 Phạm Trấn Nguyễn Bỉnh Dị 1556 Mạc
58 Đặng Thì Thố 1559 Mạc
59 Phạm Duy Quyết Nguyễn Khắc Kính 1562 Mạc
60 Phạm Quang Tiến Lê Khắc Đôn 1562 Mạc
61 Vũ Hữu Chính 1565 Mạc
62 Lê Khiêm 1565 Hậu Lê
63 Nguyễn Miễn Bùi Tất Năng 1571 Mạc
64 Vũ Văn Khuê Nguyễn Tự Cường 1574 Mạc
65 Vũ Giới Đoàn Thế Bạt 1577 Mạc
66 Lê Trạc Tú 1577 Hậu Lê
67 Nguyễn Văn Giai 1580 Hậu Lê
68 Đỗ Cung Ngô Trừng 1580 Mạc
69 Nguyễn Tuấn Ngạn Đào Tung 1583 Mạc
70 Nguyễn Nhân Thiệm 1583 Hậu Lê
71 Nguyễn Giáo Phường 1586 Mạc
72 Phạm Y Toàn 1589 Mạc
73 Lê Như Bật 1589 Hậu Lê
74 Trịnh Cảnh Thụy 1592 Hậu Lê
75 Phạm Hữu Năng Hoàng Đĩnh 1592 Mạc
76 Nguyễn Thực Nguyễn Viết Tráng 1595 Hậu Lê
77 Nguyễn Thứ Nguyễn Khắc Khoan 1598 Hậu Lê
78 Nguyễn Đăng 1602 Hậu Lê
79 Nguyễn Thế Tiêu Đặng Duy Minh 1604 Hậu Lê
80 Lưu Đình Chất Ngô Nhân Triệt 1607 Hậu Lê
81 Nguyễn Văn Khuê Nguyễn Tiến Dụng 1610 Hậu Lê
82 Nguyễn Tuấn Bùi Tất Thắng 1613 Hậu Lê
83 Lê Trí Dụng Vũ Miễn 1616 Hậu Lê
84 Nguyễn Lại Trần Hữu Lễ 1619 Hậu Lê
85 Phạm Phi Kiên 1623 Hậu Lê
86 Giang Văn Minh 1628 Hậu Lê
87 Nguyễn Thọ Xuân 1631 Hậu Lê
88 Vũ Bạt Tụy Nguyễn Nhân Trứ 1634 Hậu Lê
89 Nguyễn Xuân Chính 1637 Hậu Lê
90 Phí Văn Thuật 1640 Hậu Lê
91 Nguyễn Khắc Thiệu Lê Trí Trạch 1643 Hậu Lê
92 Nguyễn Đăng Hạo 1646 Hậu Lê
93 Khương Thế Hiển Trịnh Cao Đệ 1650 Hậu Lê
94 Phùng Viết Tu Nguyễn Đình Chính 1652 Hậu Lê
95 Nguyễn Đình Trụ 1656 Hậu Lê
96 Nguyễn Quốc Trinh Lê Thức 1659 Hậu Lê
97 Đặng Công Chất Trần Xuân Bảng 1661 Hậu Lê
98 Nguyễn Viết Thứ Vũ Duy Đoán 1664 Hậu Lê
99 Nguyễn Quán Nho Nguyễn Hữu Đăng 1667 Hậu Lê
100 Lưu Danh Công Trần Thế Vinh 1670 Hậu Lê
101 Bùi Quang Vận Nguyễn Đức Vọng 1673 Hậu Lê
102 Nguyễn Quý Đức Ngô Sách Tuân 1676 Hậu Lê
103 Phạm Công Thiện Nguyễn Côn 1680 Hậu Lê
104 Nguyễn Đăng Đạo Phạm Quang Trạch 1683 Hậu Lê
105 Vũ Thạnh Nguyễn Danh Dự 1685 Hậu Lê
106 Nguyễn Đình Hoàn Nguyễn Quốc Cương 1688 Hậu Lê
107 Ngô Vi Thực Nguyễn Hữu Đạo 1691 Hậu Lê
108 Ngô Công Trạc 1694 Hậu Lê
109 Nguyễn Quyền, Nguyễn Trù 1697 Hậu Lê
110 Vũ Đình Ức Nguyễn Hiệu 1700 Hậu Lê
111 Nguyễn Quang Luân Nguyễn Trí Cung 1703 Hậu Lê
112 Phạm Quang Dung Đỗ Công Đĩnh 1706 Hậu Lê
113 Phạm Khiêm Ích Nguyễn Đồng Lâm 1710 Hậu Lê
114 Nguyễn Duy Đôn Nguyễn Ky 1712 Hậu Lê
115 Bùi Sĩ Tiêm Nguyễn Công Thái 1715 Hậu Lê
116 Vũ Công Tể 1718 Hậu Lê
117 Ngô Sách Hân Nguyễn Tông Quai 1721 Hậu Lê
118 Hà Công Huân Chu Nguyên Lâm 1724 Hậu Lê
119 Nguyễn Thế Tập Đặng Công Diễn 1727 Hậu Lê
120 Đỗ Huy Kỳ Nguyễn Bá Lân 1731 Hậu Lê
121 Nhữ Trọng Thai Nguyễn Hồ Dĩnh 1733 Hậu Lê
122 Trịnh Tuệ Nhữ Đình Toản 1736 Hậu Lê
123 Vũ Diễm Nguyễn Lâm Thái 1739 Hậu Lê
124 Phan Cảnh Nguyễn Hoàn 1743 Hậu Lê
125 Đoàn Chú (Đoàn Thụ) Trần Danh Tố 1746 Hậu Lê
126 Nguyễn Huy Oánh Vũ Miên 1748 Hậu Lê
127 Lê Quý Đôn 1752 Hậu Lê
128 Nguyễn Tông Trình Phan Cận 1754 Hậu Lê
129 Bùi Đình Dự Phạm Nguyễn Đạt 1757 Hậu Lê
130 Ngô Trần Thực Nguyễn Huy Cận 1760 Hậu Lê
131 Vũ Cơ Nguyễn Duy Thức 1763 Hậu Lê
132 Ngô Thì Sĩ 1766 Hậu Lê
133 Bùi Huy Bích Ngô Duy Viên 1769 Hậu Lê
134 Hồ Sĩ Đống 1772 Hậu Lê
135 Ngô Thế Trị Phan Huy Ích 1775 Hậu Lê
136 Nguyễn Hú (Duân) Ninh Tốn 1778 Hậu Lê
137 Lê Huy Trân 1779 Hậu Lê
138 Nguyễn Tân Nguyễn Cầu 1781 Hậu Lê
139 Nguyễn Du Nguyễn Bá Lan 1785 Hậu Lê
140 Trần Bá Lãm 1787 Hậu Lê
141 Bùi Dương Lịch 1787 Hậu Lê
142 Nguyễn Ý 1822 Nguyễn
143 Hoàng Tế Mỹ 1826 Nguyễn
144 Nguyễn Đăng Huân 1829 Nguyễn
145 Phạm Trứ 1832 Nguyễn
146 Nguyễn Hữu Cơ 1835 Nguyễn
147 Nguyễn Cửu Trường 1838 Nguyễn
148 Nguyễn Ngọc 1841 Nguyễn
149 Hoàng Đình Tá 1842 Nguyễn
150 Mai Anh Tuấn 1843 Nguyễn
151 Nguyễn Viết Chương 1844 Nguyễn
152 Phan Dưỡng Hạo 1847 Nguyễn
153 Nguyễn Khắc Cần 1848 Nguyễn
154 Đỗ Duy Đệ 1849 Nguyễn
155 Phạm Thanh 1851 Nguyễn
156 Vũ Duy Thanh 1851 Nguyễn
157 Nguyễn Đức Đạt 1853 Nguyễn
158 Ngụy Khắc Đản 1856 Nguyễn
159 Nguyễn Hữu Lập 1862 Nguyễn
160 Trần Bích San 1865 Nguyễn
161 Đặng Văn Kiều 1865 Nguyễn
162 Vũ Nhự 1868 Nguyễn
163 Nguyễn Quang Bích 1869 Nguyễn
164 Nguyễn Khuyến 1871 Nguyễn
165 Phạm Như Xương 1875 Nguyễn
166 Phan Đình Phùng 1877 Nguyễn
167 Đỗ Huy Liêu 1879 Nguyễn
168 Nguyễn Đình Dương 1880 Nguyễn
169 Nguyễn Đức Quý 1884 Nguyễn
170 Hoàng Bính 1889 Nguyễn
171 Vũ Phạm Hàm 1892 Nguyễn
172 Trần Dĩnh Sĩ 1895 Nguyễn
173 Đào Nguyên Phổ 1898 Nguyễn
174 Nguyễn Đình Tuân 1901 Nguyễn
175 Đặng Văn Thụy 1904 Nguyễn
176 Nguyễn Đình Phiên 1907 Nguyễn
177 Vương Hữu Phu 1910 Nguyễn
178 Đinh Văn Chấp 1913 Nguyễn
179 Trịnh Thuần 1916 Nguyễn
180 Nguyễn Phong Di 1919 Nguyễn

Trạng nguyên

Trạng nguyên (chữ Hán: 狀元)danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ của người đỗ cao nhất trong các khoa đình thời phong kiến ở Việt Nam của các triều nhà Lý, Trần, Lê, và Mạc, kể từ khi có danh hiệu Tam khôi dành cho 3 vị trí đầu tiên. Người đỗ Trạng nguyên nói riêng và đỗ tiến sĩ nói chung phải vượt qua 3 kỳ thi: thi hương, thi hội và thi đình.

Khoa thi đầu tiên được mở ra dưới thời Lý năm 1075, lúc đó vua nhà Lý chưa đặt ra định chế tam khôi nên người đỗ đầu khoa thi này là Lê Văn Thịnh chưa được gọi là Trạng nguyên. Danh sách cụ thể những người đỗ đầu các kỳ thi này xem bài Thủ khoa Đại Việt. Phải đến khoa thi năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 đời vua Trần Thái Tông (1247) mới đặt ra định chế tam khôi (3 vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên. Đến thời nhà Nguyễn thì không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa (danh hiệu cao nhất dưới thời nhà Nguyễn là Đình nguyên). Do đó Trạng nguyên cuối cùng là Trịnh Tuệ đỗ khoa Bính Thìn (1736) thời Lê-Trịnh.

Danh sách các Trạng nguyên của Việt Nam:

Danh sách này bao gồm những người được phong là thủ khoa và Chính danh Trạng nguyên từ khi có danh vị này. Trường hợp phân chia 2 ngôi vị thời Trần Kinh Trạng nguyên (đỗ đầu các Tiến sĩ quê từ Ninh Bình trở ra) và Trại Trạng nguyên (đỗ đầu các Tiến sĩ quê từ Thanh Hoá trở vào) cũng được ghi đủ cả hai vị. Một số trong số này đã được ghi danh vào bia Tiến sĩ ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám.

Thứ tự Tên Năm sinh – Năm mất Quê Năm đỗ Trạng nguyên Đời vua Ghi chú
1 Khương Công Phụ 731  –  805 Thanh Hóa 780 Đường Đức Tông Trạng nguyên đầu tiên, làm đến tể tước thời Đường.
1 Lê Văn Thịnh 1050 – 1096 Bắc Ninh 1075 Lý Nhân Tông
2 Mạc Hiển Tích 1060 – 1189 Hải Dương 1086 Lý Nhân Tông Tổ 5 đời của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
3 Bùi Quốc Khái 1141 – 1234 Hải Dương 1185 Lý Cao Tông
4 Nguyễn Công Bình Vĩnh Phúc 1213 Lý Huệ Tông Ông tổ nghề nuôi ong.
5 Trương Hanh 1200 – ? Hải Dương 1232 Trần Thái Tông Trạng nguyên đầu tiên của triều đại nhà Trần.
6 Lưu Miễn Thanh Hóa 1239 Trần Thái Tông
7 Nguyễn Quan Quang 1222 –  ? Bắc Ninh 1246 Trần Thái Tông Trạng nguyên đầu tiên của nước ta. (Khoa thi đầu tiên đặt ra danh hiệu Tam Khôi)
8 Nguyễn Hiền 1234 – 1255 Nam Định 1247 Trần Thái Tông Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất.
9 Trần Quốc Lặc 1230 – ? Hải Dương 1256 Trần Thái Tông Kinh Trạng nguyên
10 Trương Xán 1227 – ? Quảng Bình 1256 Trần Thái Tông Trại Trạng nguyên
11 Trần Cố Hải Dương 1266 Trần Thánh Tông Kinh Trạng nguyên
12 Bạch Liêu 1236 – 1315 Nghệ An 1266 Trần Thánh Tông Trại Trạng nguyên
13 Lý Đạo Tái 1254 – 1334 Bắc Ninh 1272 Trần Thánh Tông Tổ thứ ba (Huyền Quang) của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
14 Đào Tiêu Thanh Hóa 1275 Trần Thánh Tông
15 Mạc Đĩnh Chi 1272 – 1346 Hải Dương 1304 Trần Anh Tông Cháu 5 đời của Mạc Hiển Tích, Lưỡng quốc Trạng nguyên
16 Đào Sư Tích 1348 – 1396 Nam Định 1374 Trần Duệ Tông Tam nguyên
17 Lưu Thúc Kiệm 1373 – 1434 Bắc Ninh 1400 Hồ Quý Ly
18 Nguyễn Trực 1417 – 1474 Hà Nội 1442 Lê Thái Tông Lưỡng quốc Trạng nguyên – văn bia đầu tiên.
19 Nguyễn Nghiêu Tư 1383 – 1471 Bắc Ninh 1448 Lê Nhân Tông Trạng Lợn, Lưỡng quốc trạng nguyên, Trạng nguyên lớn tuổi nhất
20 Lương Thế Vinh 1441 – 1496 Nam Định 1463 Lê Thánh Tông Trạng Lường
21 Vũ Kiệt 1452 – ? Bắc Ninh 1472 Lê Thánh Tông Trạng Vít
22 Vũ Tuấn Chiêu 1425 – ? Nam Định 1475 Lê Thánh Tông
23 Phạm Đôn Lễ 1454 – ? Thái Bình 1481 Lê Thánh Tông Trạng Chiếu (Tam nguyên)
24 Nguyễn Quang Bật 1463 – 1505 Bắc Ninh 1484 Lê Thánh Tông
25 Trần Sùng Dĩnh 1465 – ? Hải Dương 1487 Lê Thánh Tông
26 Vũ Duệ ? – 1520 Phú Thọ 1490 Lê Thánh Tông
27 Vũ Tích (Vũ Dương) Hải Dương 1493 Lê Thánh Tông Tam nguyên
28 Nghiêm Hoản Bắc Ninh 1496 Lê Thánh Tông Trạng Hổ
29 Đỗ Lý Khiêm Thái Bình 1499 Lê Hiển Tông
30 Lê Ích Mộc 1458 – 1538 Hải Phòng 1502 Lê Hiển Tông
31 Lê Nại 1528 – ? Hải Dương 1505 Lê Uy Mục Trạng Ăn
32 Nguyễn Giản Thanh và Hứa Tam Tỉnh 1482 – ? Bắc Ninh 1508 Lê Uy Mục Trạng Me và Trạng Ngọt
33 Hoàng Nghĩa Phú 1479 – ? Hà Nội 1511 Lê Tương Dực
34 Nguyễn Đức Lượng 1465 – ? Hà Nội 1514 Lê Tương Dực
35 Ngô Miễn Thiệu 1498 – ? Bắc Ninh 1518 Lê Chiêu Tông
36 Hoàng Văn Tán Bắc Ninh 1523 Lê Cung Hoàng
37 Trần Tất Văn 1428 – 1527 Hải Phòng 1526 Lê Cung Hoàng
38 Đỗ Tống 1504 – ? Hưng Yên 1529 Mạc Thái Tổ
39 Nguyễn Thiến 1495 – 1557 Hà Nội 1532 Mạc Thái Tông
40 Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491 – 1585 Hải Phòng 1535 Mạc Thái Tông Trạng Trình
41 Giáp Hải 1515 – 1585 Bắc Giang 1538 Mạc Thái Tông Trạng Ác
42 Nguyễn Kỳ 1518 –  ? Hưng Yên 1541 Mạc Hiến Tông
43 Dương Phúc Tư 1505 – 1564 Hưng Yên 1547 Mạc Tuyên Tông
44 Trần Văn Bảo 1524 – 1610 Nam Định 1550 Mạc Tuyên Tông
45 Nguyễn Lượng Thái 1525 – 1576 Bắc Ninh 1553 Mạc Tuyên Tông
46 Phạm Trấn 1523 – ? Hải Dương 1556 Mạc Tuyên Tông
47 Đặng Thì Thố 1526 – ? Hải Dương 1559 Mạc Tuyên Tông (là Thám hoa)
48 Phạm Duy Quyết 1521 – ? Hải Dương 1562 Mạc Mậu Hợp
49 Phạm Quang Tiến Bắc Ninh 1565 Mạc Mậu Hợp
50 Nguyễn Duy Thì 1562 – 1642 Vĩnh Phúc 1599 Lê Trung Hưng Tam Nguyên
51 Nguyễn Xuân Chính 1587 – ? Bắc Ninh 1637 Lê Thần Tông Trạng Cháy
52 Nguyễn Quốc Trinh 1624 – 1674 Hà Nội 1659 Lê Thần Tông
53 Đặng Công Chất 1621 – 1683 Hà Nội 1661 Lê Thần Tông
54 Lưu Danh Công 1643 – ? Hà Nội 1670 Lê Huyền Tông
55 Nguyễn Đăng Đạo 1650 – 1718 Bắc Ninh 1683 Lê Hy Tông Trạng Bịu, Lưỡng quốc Trạng nguyên
56 Trịnh Tuệ/Trịnh Huệ 1701 – ? Thanh Hóa 1736 Lê Ý Tông Trạng nguyên cuối cùng

Bảng nhãn

Bảng nhãn (chữ Nôm: 版沲)một danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến. Ở Việt Nam, danh hiệu này được xác định trong kỳ thi bậc nhất của thi Đình, còn gọi là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, nhị danh. Người thi đỗ bảng nhãn đứng thứ hai trong tam khôi (dưới Trạng nguyên, trên Thám hoa).

Danh sách các Bảng nhãn của Việt Nam:

Danh sách bảng nhãn dưới đây lấy theo Danh sách các vị Tam khôi của Viện Hán-Nôm.

Thứ tự Tên Năm sinh – Năm mất Quê Năm đỗ Bảng nhãn Đời vua Ghi chú
1 Phạm Văn Tuấn 1221 – ? Hải Dương 1246 Trần Thái Tông Bảng nhãn đầu tiên của Việt Nam
2 Lê Văn Hưu 1230 – 1322 Thanh Hóa 1247 Trần Thái Tông Bảng nhãn trẻ tuổi nhất (17 tuổi).
3 Chu Hinh ? – ? Hưng Yên 1256 Trần Thái Tông
4 Bùi Mộ ? – ? Hà Nội 1304 Trần Anh Tông
5 Lê Hiến Phủ 1341 – 1399 Quảng Ninh 1374 Trần Duệ Tông
6 Nguyễn Như Đổ 1424 – 1526 Hà Nội 1442 Lê Thái Tông Bảng nhãn 18 tuổi.
7 Trịnh Thiết Trường 1390 – ? Thanh Hóa 1448 Lê Nhân Tông Năm 1442 đã đỗ hạng tam giáp đồng tiến sĩ nhưng không nhận.
8 Nguyễn Đức Trinh 1439 – 1472 Hải Dương 1463 Lê Thánh Tông
9 Nguyễn Toàn An (Nguyễn Kim An?) 1451 – ? Hải Dương 1472 Lê Thánh Tông Là lính trong quân đội Đại Việt dưới thời vua Lê Thánh Tông. Nhờ một bài thơ mà vua Lê Thánh Tông cho về quê đèn sách rồi đỗ bảng nhãn khoa Nhâm Thìn 1472.
10 Ông Nghĩa Đạt ? – ? Hà Nội 1475 Lê Thánh Tông
11 Lê Quảng Chí 1451 – 1533 Hà Tĩnh 1478 Lê Thánh Tông Đình nguyên Bảng nhãn, Hoành Sơn tiên sinh.
12 Trần Bích Hoành 1452 – ? Nam Định 1478 Lê Thánh Tông
13 Lưu Hưng Hiếu 1456 – ? Thanh Hóa 1481 Lê Thánh Tông
14 Nguyễn Giác ? – ? Hà Nội 1484 Lê Thánh Tông
15 Nguyễn Đức Huấn ? – ? Hải Dương 1487 Lê Thánh Tông
16 Ngô Hoán 1460 – 1522? Hải Dương 1490 Lê Thánh Tông
17 Ngô Thầm ? – ? Bắc Ninh 1493 Lê Thánh Tông Thành viên hội Tao Đàn.
18 Nguyễn Huân ? – ? Bắc Ninh 1496 Lê Thánh Tông
19 Lương Đắc Bằng 1472 – 1522 Thanh Hóa 1499 Lê Hiến Tông Giỏi về lý số.
20 Lê Sạn 1476 – ? Hà Nội 1502 Lê Hiến Tông
21 Bùi Nguyên ? – ? Hà Nội 1505 Lê Uy Mục
22 Hứa Tam Tỉnh 1481 – ? Bắc Ninh 1508 Lê Uy Mục
23 Trần Bảo Tín 1482 – ? Hà Tĩnh 1511 Lê Tương Dực Truy phong phúc thần thượng thư.
24 Nguyễn Chiêu Huấn ? – ? Bắc Ninh 1514 Lê Tương Dực
25 Nguyễn Mẫn Đốc 1492 – ? Phú Thọ 1518 Lê Chiêu Tông Nguyên quán Tứ Kỳ, Hải Dương. Theo Lê Chiêu Tông vào Thanh Hóa, tuẫn tiết, truy phong phúc thần.
26 Nguyễn Thuyên ? – ? Bắc Ninh 1523 Lê Cung Hoàng
27 Nguyễn Văn Hiến ? – ? Bắc Ninh 1526 Lê Cung Hoàng
28 Nguyễn Hãng 1488 – ? Hà Nội 1529 Mạc Thái Tổ
29 Bùi Vịnh 1498 – 1545 Hà Nội 1532 Mạc Thái Tông
30 Bùi Khắc Đốc 1510 – ? Hà Nội 1535 Mạc Thái Tông
31 Trần Toại 1514 – ? Phú Thọ 1538 Mạc Thái Tông
32 Phạm Công Sâm 1504 – ? Hải Dương 1541 Mạc Hiến Tông
33 Phạm Du ? – ? Vĩnh Phúc 1547 Mạc Tuyên Tông
34 Trần Văn ? – ? Hưng Yên 1550 Mạc Tuyên Tông
35 Hoàng Tuân 1517 – ? Hưng Yên 1553 Mạc Tuyên Tông
36 Đỗ Uông 1523/1533? – 1600 Hải Dương 1556 Mạc Tuyên Tông
37 Trương Lỗ 1532 – ? Hải Dương 1562 Mạc Mậu Hợp
38 Nguyễn Miễn ? – ? Bắc Ninh 1571 Mạc Mậu Hợp
39 Nguyễn Nhân Triêm 1530 – ? Bắc Ninh 1577 Mạc Mậu Hợp
40 Nguyễn Nghi 1577 – 1664 Thái Bình 1637 Lê Thần Tông Bảng nhãn lớn tuổi nhất (61 tuổi).
41 Nguyễn Văn Bích 1620 – 1706 Hải Phòng 1659 Lê Thần Tông Nguyên quán Tĩnh Gia, Thanh Hóa.
42 Đào Công Chính 1623/1639? – ? Hải Phòng 1661 Lê Thần Tông
43 Phạm Quang Trạch 1653 – ? Hà Nội 1683 Lê Hy Tông
44 Nguyễn Đình Ức 1676 – ? Hà Nội 1700 Lê Hy Tông
45 Hà Tông Huân 1697 – 1766 Thanh Hóa 1724 Lê Dụ Tông Đình nguyên Bảng nhãn.
46 Nhữ Trọng Đài 1696 – ? Hải Dương 1733 Lê Thuần Tông
47 Lê Quý Đôn 1726 – 1784 Thái Bình 1752 Lê Hiển Tông Đình nguyên Bảng nhãn.
48 Phạm Thanh 1821 – ? Thanh Hóa 1851 Tự Đức
49 Vũ Duy Thanh 1807 – 1859 Ninh Bình 1851 Tự Đức Chế khoa. Dân gian gọi là Trạng Bồng. Bảng nhãn cuối cùng của Việt Nam

Thám hoa

Thám hoa (tiếng Hoa:探花) là một loại danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống khoa bảng Nho học thời phong kiến ở các quốc gia Đông Á. Ở Việt Nam, danh hiệu này được xác định trong kỳ thi bậc nhất của thi Đình, còn gọi là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh. Người thi đỗ thám hoa đứng thứ ba trong tam khôi (dưới trạng nguyên và bảng nhãn).

Danh sách các Thám hoa của Việt Nam:

  • Giang Văn Minh (1573 – 1638), đỗ Thám hoa lúc 56 tuổi, làm quan đến Thái bộc tự khanh
  • Vũ Công Tể (1687-1745), đỗ Thám hoa lúc 32 tuổi, làm quan đến Tham tụng, Lại bộ Thượng thư
  • Đặng Văn Kiều (1824-1881), đỗ Thám hoa lúc 42 tuổi, làm quan đến Quốc sử quán Toản tu, từng làm Giám thí (Phó chủ khảo) trường thi Thừa Thiên (tức trường thi Quảng Đức)
  • Vũ Phạm Hàm (1864 – 1906), đỗ Thám hoa lúc 29 tuổi, làm quan đến Đốc học Hà Nội
  • Lưỡng quốc Thám Hoa Phan Kính
  • Thám Hoa Nguyễn Đức Đạt
  • Thám Hoa Nguyễn Văn Giao
  • Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh

Hoàng giáp

Hoàng giáp (chữ Hán: 黃甲) là một loại (gọi là giáp) danh hiệu của học vị Tiến sĩ Nho học trong hệ thống khoa bảng thời phong kiến. Loại danh hiệu này được xác định trong kỳ thi Đình, còn gọi là tiến sĩ xuất thân (進士出身). Vì đứng thứ hai trong hệ thống các loại học vị tiến sĩ, trên đệ tam giáp, nhưng dưới đệ nhất giáp, tức tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) nên còn gọi là Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân. Hoàng giáp (đệ nhị giáp) được quy định lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm Kiến Trung thứ 8 (1232) đời vua Trần Thái Tông cùng với đệ nhất giáp (tam khôi) và đệ tam giáp (thái học sinh).

Danh sách các Hoàng giáp của Việt Nam:

  • Nguyễn Trung Ngạn là người đỗ hoàng giáp đầu tiên khoa Đại tỷ năm 1304 khi mới 16 tuổi.
  • Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) (1330 – 1400), hoàng giáp năm Ất Mão (1375)
  • Trương Phu Duyệt (1476 – ?), hoàng giáp năm 1505, thượng thư bộ lại đời vua Lê Cung Hoàng
  • Vũ Hữu (1437 – 1530), hoàng giáp năm Quý Mùi (1463)
  • Quách Hữu Nghiêm (1442 – 1504), hoàng giáp năm Bính Tuất (1466)
  • Nghiêm Ích Khiêm (1459 – 1499), hoàng giáp năm Canh Tuất (1490)
  • Nguyễn Trù (1668 – 1738), hoàng giáp năm Đinh Sửu (1697)
  • Bùi Huy Bích (1744 – 1818), hoàng giáp năm Canh Dần (1770)
  • Bùi Dương Lịch (1757 – 1828) là nhà văn hóa lớn của Việt Nam thời Tây Sơn và nhà Nguyễn, hoàng giáp năm 1787.
  • Phạm Văn Nghị (1805 – 1884), hoàng giáp năm Mậu Tuất (1838)
  • Đỗ Huy Liêu (1844 – 1891), hoàng giáp năm Kỷ Mão (1879)
  • Nguyễn Quang Bích (tức Ngô Quang Bích) (1832 – 1890) hoàng giáp năm Kỷ Tỵ (1869)
  • Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), hoàng giáp năm Tân Mùi (1871)
  • Đào Nguyên Phổ (1861 – 1907), hoàng giáp năm Mậu Tuất (1898)
  • Nguyễn Khắc Niêm (1888 – 1954), hoàng giáp năm Đinh Mùi (1907)

Đồng tiến sĩ xuất thân

Đồng tiến sĩ xuất thân (chữ Nho: 同進士出身) là một loại danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ trong hệ thống thi cử Nho học thời phong kiến tại Trung Quốc, Việt Nam.

    • Tại Trung Quốc: Thời nhà Tống, khoa cử chia ra làm 5 giáp. Những người đỗ ở giáp thứ 5 gọi là đồng tiến sĩ xuất thân. Tới thời Minh-Thanh mới chia thành 3 giáp và những người đỗ ở giáp thứ 3 gọi là đồng tiến sĩ xuất thân.
    • Tại Việt Nam: Loại danh hiệu này được xác định trong kỳ thi Đình, còn gọi là Đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân, đứng cuối cùng trong bảng danh dự các loại học vị tiến sĩ. Về sau xuất hiện thêm danh hiệu Phó bảng đứng sau học vị Tiến sĩ. Bậc cao hơn là Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (còn gọi là Hoàng giáp). Cao hơn cả là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (đứng đầu bảng là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa)

Danh sách các Đồng tiến sĩ xuất thân của Việt Nam:

  • Nguyễn Hoàn (1713 – 1792), đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân năm 31 tuổi, làm quan đến Tham tụng (Tể tướng), Quốc sử quán Tổng tài
  • Khiếu Năng Tĩnh (1835 – ?), đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân năm 45 tuổi, làm quan đến Tế tửu Quốc tử giám Huế
  • Phan Huy Nhuận (1847 – 1912) đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân năm 33 tuổi làm quan đến Phú Yên tỉnh Bố chính sứ thời Nguyễn
  • Hoàng Văn Hòe (1848 – ?) đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân năm 33 tuổi làm quan đến Quốc sử quán Tu biên thời Nguyễn

Dưới thời Hậu Lê, thi Đình thường tổ chức 3 năm/lần. Trong kỳ thi này, vua đích thân ra đề, chấm thi. Người đỗ đầu được gọi là Đình nguyên, có thể là trạng nguyên, nhiều kỳ thi không ai xứng đáng đỗ trạng thì Đình nguyên là bảng nhãn, thám hoa, có khi là hoàng giáp.

Từ năm 1428-1789, có hơn 100 kỳ thi được tổ chức. Người đỗ tiến sĩ được vua ban lễ xướng danh, ban mũ, áo, đai, ban yến, lạy tạ vinh quy và khắc bia tiến sĩ trong Văn Miếu để lưu truyền muôn đời.

Đề thi Đình thường liên quan đến đạo trị nước, nho sinh thường được thể hiện hết những suy nghĩ, trăn trở của mình trước vận mệnh, thời cuộc của quốc gia, những vấn đề đại sự. Những ý kiến nêu ra trong bài thi sẽ được vua xem xét, đánh giá, từ đó chọn ra người đỗ cao nhất.

Trong lịch sử khoa bảng nước ta, từng có những bài thi Đình thể hiện được tư duy, đạo trị nước xuất sắc. Tiêu biểu như bài thi Đình của trạng nguyên Vũ Kiệt năm 1472 nói về giáo dục và chống tham nhũng.

>> Xem thêm: Lịch sử Hệ thống Giáo dục Việt Nam qua các thời kỳ; Tìm hiểu Hệ thống Giáo dục Việt Nam thời Phong kiến

Như vậy, chúng ta đã tìm hiểu sơ qua về các học vị của những người đỗ đạt trong các kỳ thi thời Phong kiến của Việt Nam. Hy vọng bài viết giúp ích cho bạn trong việc tìm hiểu lịch sử tên gọi các loại học vị trong lịch sử Phong kiến.

5/5 - (5 bình chọn)
guest

0 Thảo luận
Phản hồi nội tuyến (inline)
Xem tất cả bình luận